09:32 ICT Thứ ba, 19/03/2024

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 471


Hôm nayHôm nay : 50176

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 1914622

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 33251043

Trang nhất » Tin Tức » Tác phẩm

Quang cao giua trang
top

Người vợ mù - Những áng Văn một thời để nhớ!

Tác giả: Khái Hưng - Thứ ba - 09/12/2014 09:06
Truyện ngắn - Khái Hưng

Truyện ngắn - Khái Hưng

Tôi biết vợ chồng nhà ấy cũng là nhờ ở một sự kiện ngẫu nhiên: họ dùng cửa nhà tôi làm nơi hội họp.

Hồi đó, tôi ở Ninh Giang, một phủ lỵ khá lớn, một bén tầu thủy khá sầm uất trên con sông Chanh. Cách tiêu khiển của tôi là chiều tối ra bờ sông xem tầu tới, tầu đi, giữa một cảnh náo nhiệt với những tiếng ồn ào gào thét của bọn bán bánh giò và bọn mời khách trọ, với những lời đe dọa hách dịch của mấy chú lính tuần cảnh, lính thương chính đến hỏi thẻ và khám soát hành lý.
Nhưng từ ngày tôi để ý đến vợ chồng người mù, thì ở Ninh Giang, đối với tôi, không còn sự tiêu khiển nào thú vị hơn là được ngắm đôi uyên ương ấy chuyện trò với nhau: một cảnh tượng cảm động thân mật và rất nên thơ.
Tôi không rõ cửa nhà tôi được họ chọn làm nơi hò hẹn từ bao giờ, và vì sao họ lại chọn cửa nhà tôi. Nhưng một buổi sáng mùa đông dậy sớm, ra hiên gác tỳ tay lan can nhìn xuốn, tôi thấy hai cái bóng đen đen đứng trên hè đường, dưới làn mưa phùn giá rét. Một lát sau, người đàn ông bảo người đàn bà:
            - Mười hai giờ bà chờ tôi ở đây nhé!
Lời nói dõng dạc trang nghiêm như giọn hạng người sống trong những xã hội cao quý. Rồi mỗi người đi một ngả. Văng vẳng tôi nghe rao câu quen tai:
            - Ai muối mua!
Và tôi nhớ ngay ra ông lão bán muối mà tôi vẫn thường gặp lang thang trong các phố.
Mười hai giờ trưa khi cuyến ô tô hàng ngày chạy Hải Dương bắt đầu mở máy, quả nhiên một người đàn bà già và mù, áo xống gọn gàng và sạch sẽ, tay cầm cái ra, rờ lần các cửa xe, rời rạc xin tiền.
Tôi nghĩ thầm:
“ Không phải ăn mày lành nghề”
Xe đi khỏi thì người bán  muối buổi sáng cũng vừa đến nơi. Và tôi hiểu vì sao bọn họ chọn giờ ấy làm giờ họp mặt: giờ ô tô.
Luôn một tuàn lễ như thế, hôm nào cũng đúng sáu giờ sáng và mười hai giờ trưa là hai vợ chồng người mù tới cửa nhà tôi đứng nói chuyện. Họ không hề sai hẹn. Và tôi tò mò lưu ý đến họ, vì họ nói rất to, như chẳng cần gì ai, hơn nữa, như coi nơi hè đường là chón phòng riêng của họ.
Họ có nhà riêng hay không, và nếu có, thì nhà riêng họ ở đâu, tôi khoogn rõ. Nhưng nghe chuyện họ, tôi biết rằng gia đình họ chỉ có hai vợ chồng: chồng làm nghề bán muối, vợ theo nghề ăn xin.
Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức nhau, như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày và mong nhớ nhau từng phút từng giây. Lần nào người chồng cũng bắt đầu:
            - Bà đấy ah? Thế nào, bà làm ăn có khá không?
Người vợ trả lời chẳng qua mấy câu này: “Cũng khá, ông ạ” hay “ Hôm nay làm ăn chẳng ra gì”.
Rồi bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hết những việc đã xẩy ra trong mấy giờ đồng hồ đi “ làm ăn”. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ.
            - Ông ạ, con mẹ Phúc Hòa Đường nó lại nhiếc tôi soa không kiếm việc mà làm ăn, đi ăn mày thế này không biết nhục à?
            - Con mẹ Phúc Đường Hòa ở phố Ninh Lãng có phải không bà?
            - Phải đấy ông ạ. Nó thử mù như tôi xem ông nhỉ?
            - Thế nó có cho bà đồng nào không?
            - Nó mà cho nó nhiếc thì đã cam.
            - Nó giàu nhất phố đấy, bà ạ.
            - Giàu thế thì giàu làm gì? Giàu mà không biết thương kể đói khó, mù lòa. CŨng chả bền được đâu, ông nhỉ?
            - Phải, bền thế nào cho được.
            - Giá giời cho vợ chồng mình giàu như họ thì mình ăn ở rõ ra người giàu, có phải không ông?
            - Phải, mình để của làm gì? Để của cho con nó phá nhé? Bà có biết không, thằng con nhà ấy nó phá chẳng mấy nỗi mà hết cơ nghiệp. Thôi thì đủ, bà ạ, cờ bạc, bợm đĩ, hút sách.
            - Thế à ông?
Câu chuyện cứ thế kéo dài, u yếm như chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục, một điều ông ạ, hai điều bà nhỉ, và có tính cách thoogn tin tức như một tờ báo hàng ngày.
            - Ông ạ, tôi nghe người nhà bà thông Đoan nói chuyện xe Ninh Thái bị bắt thuốc phiện, đâu những bốn, năm cân dựa. Chắc bị phạt khá tiền đấy nhỉ? Hay đi đêm, thế nào chả có ngày gặp mà ông nhỉ?
Tiếp chuyện bắt thuốc phiện, bà lão kể đến chuyện gia đình nhà ông đội Nhất: Vợ chồng ông độ chẳng ngày nào là không cãi nhau. Bà lão thì nhắc lại từng câu mắng nhiếc chửi rủa tục tằn của hai người, rồi bình phẩm:
            - Cứ nghèo như vợ chồng mình lại êm thấm nhỉ ông nhỉ?
Ông lão bán muối cười rất có duyên, và có vẻ tự phụ nữa. Hôm nào người vợ phàn nàn không xin được một trinh nhỏ, thì người chồng tìm hết lời an ủi:
            - Thôi, bà ạ, cần gì. Hôm nay tôi làm ăn nhờ giời khá lắm. Chúng mình chỉ mon iếm đủ ăn chứ có cần để dành tiền như họ đâu. Vậy bà về nhà mà nghỉ nhá. Tôi đã đong một hào gạo, mua một xu rau muống, một xu tương rồi đấy. Bà về thổi cơm, tôi bán hết chỗ này cũng về ngay đây.
Họ từ biệt nhau, cho tới sáu giờ sáng hôm sau lại vui mừng cũng nhau nói chuyện.
Nửa năm ròng, tôi tò mò đi sâu mãi vào cái đời đường hoàng và thâm sâu của cặp vợ chồng khốn khó. Có hôm tôi đã cố theo họ xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng họ như đôi chuồn chuồn sống nhởn nhơ khong tổ trên mặt nước ao tù.
Một dạo tôi thấy vắng bóng đôi uyên ương già ở trước cửa nhà tôi. Tối đoán chừng họ đã chọn một phố khác yên tĩnh hơn làm nơi góp chuyện hàng ngày.
Nhưng một buổi chiều đi chơi mát, tôi rẽ vào xem đền Chanh thì gặp ông lão lòa đương lom khom quét lá khô ở sân. Tôi vui mừng hỏi:
            - Kìa ông bán muối. Hàng họ có khá không? Sao độ rầy tôi không gặp ông?
Người kia đứng thẳng lên, hấp háy cố nhìn tôi bằng cặp mắt gần tàn ánh sáng như ngọn đèn cạn dầu bập bùng chực tắt. Tôi hỏi luôn:
            - Còn bà lão, vợ ông, lâu nay đi đâu?
Hai hàng lệ chảy ràn rụa trên đôi gò má răn reo. Tôi hiểu ngay rằng oogn già khốn nạn đương mang nặng trong lòng một nỗi khổ thống lớn lao.
Và tôi nghĩ ngay đến sự tử biệt…
            - Ông buồn lắm phải không?
            - Vâng, tôi không thiết sống nữa, thầy ạ. Bà lão nhà tôi, bà ấy bỏ tôi bà ấy đi rồi…
Tôi kinh ngạc:
            - Bà ấy bỏ ông?
            - Vâng, bà ấy chết rồi, còn đâu!
Người ấy cúi xuống quét sân, nói tiếp:
            - Hơn bốn mươi năm giờ ăn ở với nhau, chả có điều tiếng gì… bây giờ bà ấy bỏ bà ấy đi một mình.
Lúc từ biệt tôi đãi ông lão khổ sở ấy một hào nhưng ông ta lắc đầu xua tay:
            - Tôi lấy tiền làm gì nữa. Ngày xưa có vợ có chồng, tôi mới phải vất vả làm ăn. Chứ bây giờ còn một thân một mình, thì tôi chỉ nhờ cửa thánh ngày hai bữa cơm thừa canh cặn đủ no… đẻ chờ ngày được gặp mặt bà lão tôi nơi suối vàng.
Dù cảm động đến đâu tôi cũng không thể giấu nổi cái mỉm cười: tôi nhận thấy ngôn ngữ ông lão bán muối vẫn còn đứng đắn và kiểu cách như xưa, khi ngồi trò chuyện với người vợ mù ở trước cửa nhà tôi.

Tác giả: Khái Hưng

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

GIỚI THIỆU CHUNG

Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển (TaDRI) là một tổ chức khoa học công nghệ phi chính phủ, phi lợi nhuận được thành lập theo quyết định số 1364/QĐ - LHH của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 11/10/2006 và giấy phép hoạt động khoa học công nghệ số A-571 do Bộ Khoa học...

Đọc nhiều nhất