10:48 ICT Thứ tư, 09/10/2024

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 661

Máy chủ tìm kiếm : 3

Khách viếng thăm : 658


Hôm nayHôm nay : 75489

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 1504639

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 61263373

Trang nhất » Tin Tức » Truyền thống & Phát triển

Quang cao giua trang
top

Giá trị của lễ hội dân gian các tộc người Tây nguyên nhìn từ văn hóa du lịch

Tác giả: Nguyễn Văn Bốn - Thứ sáu - 25/09/2015 08:42
Giá trị của lễ hội dân gian các tộc người Tây nguyên nhìn từ văn hóa du lịch

Giá trị của lễ hội dân gian các tộc người Tây nguyên nhìn từ văn hóa du lịch

Tây Nguyên bao gồm 5 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắc Nông, Đắc Lắc và Lâm Đồng. Đây là vùng đất có trên 20 tộc người sinh sống, ngôn ngữ thuộc hai ngữ hệ chính là Môn - Khơme và Nam đảo: “Nhóm Môn - Khơme (21 ngôn ngữ): Khơme, Ba na, Xơ đăng, Cơ ho, Hrê, M'nông, Xtiêng, Bru Vân Kiều, Cơ tu, Khơ mú, Tà ôi, Mạ, Co, Gié Triêng, Xinh mun, Chơ ro, Mảng, Kháng, Rơ măm, Ơ đu, Brâu. Ngữ hệ Nam Đảo (5 ngôn ngữ): Gia rai, Ê đê, Chăm, Rag lai, Chu ru”(1). Các tộc người ở đây là những chủ thể đã sáng tạo nên những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của văn hóa Tây Nguyên.

Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của cộng đồng diễn ra trong không gian và thời gian xác định nhằm cảm tạ, cầu xin và tôn kính các vị thần, tưởng nhớ một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại, thể hiện phương cách ứng xử của con người với môi trường thiên nhiên, xã hội. Nhìn tổng thể, lễ hội dân gian Tây Nguyên không có những khác biệt lớn so với 54 tộc người ở nước ta về đối tượng thờ, mục đích, nghi thức, không gian và thời gian tổ chức… Những lễ hội của các tộc người Tây Nguyên được hình thành từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, con người mà từ đó nảy sinh và tích hợp nên các hiện tượng văn hóa dân gian. Tuy nhiên, cũng như các hiện tượng văn hóa tinh thần khác, lễ hội ở đây chịu sự tác động trực tiếp của những yếu tố về địa lý, kinh tế, lịch sử, xã hội và phương thức canh tác nương rẫy. Do vậy, nó vừa có nét tương đồng với các tộc người ở nước ta, nhưng cũng có những sắc thái văn hóa mang đậm dấu ấn của núi rừng Tây Nguyên. Điều đó không hề mâu thuẫn với những đặc điểm chung của lễ hội dân gian các tộc người Tây Nguyên, mà còn góp phần tạo nên tính thống nhất trong sự đa dạng của văn hóa Việt Nam. Nó giống như sợi chỉ đỏ để gắn chặt và góp phần tạo nên sự cố kết cộng đồng các tộc người Việt Nam. Lễ hội còn là bức tranh sinh động, tổng thể nhất về những sắc thái văn hóa bao hàm nhiều giá trị khác nhau.

Giá trị cố kết cộng đồng

Lễ hội bao giờ cũng được nảy sinh và gắn kết với một cộng đồng, tộc người nhất định. Đó là cộng đồng của làng xã trong các lễ hội làng của người Việt, cộng đồng của những người theo Kitô giáo, Hồi giáo, Phật giáo…
Đối với các tộc người Tây Nguyên, lễ hội dân gian là thời điểm để biểu dương sức mạnh, sự cố kết tình cảm cộng đồng. Trong đời sống thường nhật và đặc biệt trong những sinh hoạt văn hóa dân gian, người dân còn gắn kết với nhau bởi nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa như âm nhạc cồng chiêng, kể khan, múa… Tính cộng đồng của lễ hội dân gian Tây Nguyên được thể hiện trong bữa ăn, chẳng hạn như ở lễ hội pơ thi (lễ bỏ mả): “Để củng cố sự cố kết cộng đồng giữa những người còn sống và những người đã chết, giữa những người còn sống với nhau, lễ bỏ ma thường tổ chức bữa ăn cộng cảm. Trong thời gian tổ chức lễ hội, hàng trăm ché rượu được huy động, hàng ngàn ống cơm lam được chuẩn bị để dâng tiến thần linh, để cúng ma và để cho mọi người dự lễ hội uống và ăn”(2).

Lễ hội dân gian các tộc người Tây Nguyên cốt lõi là văn hóa dân gian mang tính diễn xướng và tính cộng đồng cao, diễn ra theo mùa vụ sản xuất nương rẫy, hoặc theo vòng đời của con người. Vì vậy, người dân rất có ý thức trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa cộng đồng, nhiều lễ hội vẫn giữ được nguyên giá trị truyền thống như: bỏ ma, đua voi, văn hóa cồng chiêng…

 Là một hiện tượng văn hóa dân gian có sức sống trường tồn trong đời sống các tộc người Tây Nguyên, lễ hội đã trở thành môi trường văn hóa quan trọng tạo nên sự cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra vai trò và sức mạnh của khối đoàn kết các tộc người từ những buổi đầu khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số khu vực miền Nam (6-1946) và Hội nghị các dân tộc thiểu số toàn quốc (12-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xơ đăng hay Ba na và dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải yêu thương nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ quyền tự do, độc lập của chúng ta”(3).

Hiện nay, Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy vấn đề phát triển kinh tế với việc bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa dân tộc luôn được đề cao. Muốn làm được việc đó, thì sự đoàn kết các tộc người vẫn là nhân tố quyết định hàng đầu.

Giá trị hướng về nguồn cội

Các tộc người Tây Nguyên hướng về nguồn cội cộng đồng của mình thông qua sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật trong các lễ hội. Mà đặc sắc trong những lễ hội ở Tây Nguyên phải kể đến lễ pơ thi: “Các dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên có những nét tương đồng và khá đặc trưng về quan niệm và ứng xử giữa thế giới người sống và người chết, từ đó tạo nên cả một hệ thống những tập tục, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa xung quanh thế giới người chết, tạo nên một hiện tượng văn hóa dân gian mang tính tổng thể - sinh hoạt văn hóa nhà mồ”(4). Lễ hội là thời điểm cho các tộc người tưởng nhớ và hướng về nguồn cội của mình. Không ở đâu có lễ hội mang tính chất nhân văn như lễ hội pơ thi của người Tây Nguyên. Chia tay người chết bằng một lễ hội, bằng những phẩm vật cả về vật chất và tinh thần, thể hiện lòng thành kính đối với người đã khuất.

Giá trị tâm linh

Ngoài những nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ giá trị vật chất, các tộc người Tây Nguyên còn có nhu cầu về tâm linh, được thể hiện thông qua các lễ cúng. Ví như lễ cúng thần suối của người Mạ; thần đập nước, thần lúa của người Chu ru; lễ cúng đất của người Ba na ở Kon Tum và Gia Lai. Nghi lễ cúng đất của người Ba na được tổ chức vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch để chuẩn bị cho mùa canh tác nương rẫy mới, thường kéo dài trong hai ngày. Họ cầu xin các vị thần linh phù hộ cho công việc canh tác nương rẫy được thuận lợi, cuộc sống được an bình. Lễ mừng cơm mới của đồng bào Ba na ở hai tỉnh Kon Tum và Gia Lai được tổ chức tại nhà riêng hoặc nhà rông sau vụ thu hoạch. Nghi lễ được tổ chức để tạ ơn thần lúa và là lễ hội mừng mùa thu hoạch mới, cầu mong cho ruộng nương ngày càng nhiều thóc. Lễ vật dâng cúng thường là lợn hoặc gà. Lễ ăn trâu là lễ hội dân gian phổ biến và tiêu biểu nhất của các tộc người Tây Nguyên. Lễ hội thường được tổ chức tại nhà rông. Theo quan niệm của người Tây Nguyên, con trâu là vật hiến tế thần giàng. Sau các nghi thức cầu thần linh chứng giám lòng thành và nhận lễ vật, con trâu được mang ra cột giữa sân, trẻ con, trai gái, người già cùng nhau nhảy múa trong âm vang của cồng chiêng. Một đội gồm những thanh niên trai tráng trên tay cầm giáo mác tiến hành nghi thức đâm trâu. Sau đó con trâu được đồng bào mổ ăn mừng. Lễ ăn trâu thường được tổ chức từ 2 đến 3 ngày vào những dịp đặc biệt của buôn làng hay của mỗi gia đình. Trong quan niệm của các tộc người ở Tây Nguyên mọi vật xung quanh con người từ các vật dụng như chiêng, ché, ghế ngồi, đến cây cỏ, sông suối, đồi núi, con vật…đều có yang (hồn, thần). Có yang tốt, yang xấu, phù hộ hay làm hại con người. Từ quan niệm vạn vật có yang đã tạo ra nhiều lớp bao quanh con người những hồn ma, khiến họ luôn lo sợ trước các lực lượng siêu nhiên(5).

Đặc biệt trong đời sống tâm linh của các tộc người Tây Nguyên, lễ hội pơ thi được hình thành từ quan niệm con người khi chết đi, sau quá trình luân hồi, cuối cùng tái sinh trở lại đối với con cháu của mình. Trong thời gian chưa làm lễ bỏ mả, họ cho rằng hồn của những người chết vẫn còn quanh người sống, chưa về với tổ tiên, nên người sống thường ngày vẫn mang đồ ăn thức uống, chăm sóc, trò chuyện cho đến khi làm lễ bỏ mả. Như vậy, giá trị tâm linh là cội nguồn cho sự hình thành những tín ngưỡng và lễ hội dân gian của các tộc người Tây Nguyên.

Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa

Lễ hội dân gian là nguồn cảm hứng và sáng tạo những giá trị văn hóa của các tộc người. Thời gian diễn ra các lễ hội là dịp để cộng đồng cùng sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Họ là những người tổ chức, sáng tạo, tái hiện các sinh hoạt văn hóa vốn có của cộng đồng. Ví như trong lễ hội pơ thi. Để chuẩn bị cho lễ bỏ ma, các tộc người Tây Nguyên thường làm lại nhà mồ. Nhà mồ được các nghệ nhân dân gian trong buôn tạo dựng, trang trí cầu kỳ, tinh tế. Tiêu biểu nhất trong văn hóa nhà mồ là hệ thống tượng gỗ đa dạng, độc đáo như rồng, rắn, cá sấu, nam nữ khỏa thân, người ngồi xổm,... Tuy nhiên, nhà mồ tộc người Ba na còn tạc biểu tượng mặt trời, người Gia rai thì tạc tượng hình mặt trăng. Việc phục dựng và trang trí nhà mồ đã phản ánh ước mong về cuộc sống sung túc, phồn thực ở thế giới tổ tiên cũng như đời sống hiện tại. Hệ thống các tượng nhà mồ trong lễ bỏ mả ở Tây Nguyên được xem là một trong những giá trị văn hóa độc đáo của văn hóa Việt Nam. Bên cạnh đó những sinh hoạt văn hóa dân gian được trình diễn trong lễ hội bỏ mả như các điệu múa, âm nhạc của cồng, chiêng, trống, kể khan, trò chơi rước rối… cũng là những sáng tạo nghệ thuật. Lễ hội dân gian tổ chức cũng là thời điểm cho những sinh hoạt văn hóa nghệ thuật được trình diễn và sáng tạo. Đó là âm thanh của dàn cồng chiêng diễn xướng mang tính tập thể, đã thể hiện tài năng và sức sáng tạo, những điệu múa dân gian mang tính khỏe khoắn, hồn nhiên, đơn giản đã tạo nên sự gắn kết các cá nhân lại với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ tầm quan trọng việc sáng tạo văn hóa, văn nghệ. Người nhấn mạnh: “Văn hóa, văn nghệ muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật, phải trở về với cuộc sống sinh hoạt thực tại của con người”(6)Những lời nhắc nhở của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên các giá trị với những người nghiên cứu văn hóa, và văn nghệ sĩ sáng tạo văn hóa nghệ thuật.

Giá trị bảo tồn văn hóa và phát triển văn hóa du lịch Tây Nguyên

Trong không gian và thời gian của lễ hội, những giá trị văn hóa của cộng đồng được nuôi dưỡng, tái tạo, hồi sinh và trao truyền cho các thế hệ. Nó được gìn giữ và phát huy trong đời sống của người dân. Đó là các hình thức diễn xướng dân gian thông qua các điệu múa, kể khan, nghệ thuật đánh cồng chiêng, văn hóa ẩm thực... Đối với các tộc người Tây Nguyên, cồng chiêng là loại hình sinh hoạt gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần và tín ngưỡng của con người từ lúc sinh ra cho đến khi trở về với đất trời. Cồng chiêng được trình diễn trong các lễ hội, cuộc vui của buôn làng… Tiếng cồng chiêng là phương tiện để cho các tộc người giao tiếp với những vị thần linh. Nghệ thuật đánh cồng chiêng vừa đa dạng và mang phong cách riêng của từng tộc người được tái hiện trong những buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng. “Cồng chiêng Êđê chỉ diễn tấu trong ngôi nhà dài, khu mộ địa, trên rẫy; cồng chiêng Mơ Nông diễn tấu trong ngôi nhà trệt, ngoài sân, trên đường lên nương rẫy; người Gia rai đánh cồng chiêng trước ngôi nhà rông theo điệu xoang (múa) và khu mộ địa”(7). Đến với Tây Nguyên là đến với mảnh đất có nhiều kiến trúc độc đáo của những ngôi nhà rông, nhà dàn dài. Ngôi nhà rông mang dáng vẻ hoành tráng, đường bệ và thướt tha, mềm mại. Đây là nơi diễn ra lễ cúng thần linh, sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng. Người Ê đê gọi ngôi nhà dài là sang Ê đê. Ngôi nhà sàn Ê đê được chia thành gian trong (ôk) và gian ngoài (gah). Phần ôk là không gian sinh hoạt của gia đình, còn phần gahlà nơi tiếp khách, uống rượu, sinh hoạt văn nghệ, tiến hành các nghi lễ. Ngôi nhà sàn dài Ê đê nhìn từ xa tựa như con thuyền… Nhà sàn dài là nơi cu trú của đại gia đình mẫu hệ Ê đê”(8). Tây Nguyên từ lâu đã được biết đến là vùng đất của sử thi. Sử thi là kho tàng văn hóa dân gian độc đáo của các tộc người Tây Nguyên. Hiện nay, thông qua các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, người dân đã bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của sử thi.

Trong giai đoạn hiện nay, những yếu tố truyền thống của các tộc người đã được khai thác để phát triển du lịch mang lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào, và còn là thương hiệu, điểm nhấn của vùng du lịch Tây Nguyên. Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Tây Nguyên là một trong bảy vùng du lịch quốc gia. Đặc biệt, năm 2014 Tây Nguyên sẽ được chọn là nơi tổ chức năm quốc gia du lịch quốc gia. Tuy nhiên, muốn phát triển du lịch, cần quy hoạch tổng thể lễ hội có thể khai thác, chứ không phải tất cả các lễ hội. Bên cạnh đó cần đào tạo đội ngũ những người quản lý vừa có tính chuyên nghiệp vừa hiểu biết sâu các giá trị văn hóa bản địa. Mở các lớp đào tạo nghiệp vụ hướng dẫn và phục vụ khách du lịch cho đồng bào để phát triển loại hình du lịch cộng đồng. Đảng và Nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật để đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch khi đến với Tây Nguyên. Phát triển du lịch du lịch với trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, đảm bảo về an ninh, chính trị của vùng Tây Nguyên cũng như của cả quốc gia. Quá trình khai thác giá trị văn hóa phục vụ du lịch, các cơ sở và cá nhân kinh doanh không thương mại hóa, trần tục hóa các lễ hội. Có như vậy, lễ hội dân gian các tộc người Tây Nguyên mới thực sự được bảo tồn, phát huy những giá trị trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
_______________

1. Lê Sĩ Giáo, Dân tộc hc đi cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr.102.
2. Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng, Lễ hi truyn thng trong xã hi hin đi, Nxb Khoa học Xã hi, Hà Nội, 1993.
3, 6. Lê Mậu Hãn, Đại cương lch s Vit Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
4, 5. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa và phân vùng văn hóa Việt NamNxb Trẻ, TP.HCM, 2004.
7, 8. Đỗ Hồng Kỳ, Một số di sản văn hóa tiêu biểu của cư dân bản địa Tây Nguyên, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 340, 2012.

Tác giả: Nguyễn Văn Bốn

Nguồn tin: Tạp chí VHNT số 352

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin cũ hơn

 

GIỚI THIỆU CHUNG

Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển (TaDRI) là một tổ chức khoa học công nghệ phi chính phủ, phi lợi nhuận được thành lập theo quyết định số 1364/QĐ - LHH của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 11/10/2006 và giấy phép hoạt động khoa học công nghệ số A-571 do Bộ Khoa học...

Đọc nhiều nhất