06:23 ICT Thứ ba, 15/10/2024

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 526


Hôm nayHôm nay : 45543

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 2482176

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 62240910

Trang nhất » Tin Tức » Bàn tròn » Phỏng vấn

Quang cao giua trang
top

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HỘI THÀNH VIÊN LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 -2015

Tác giả: TS. Trần Việt Hùng - Thứ tư - 06/05/2015 12:29
ông Trần Việt Hùng PCT LHH Việt Nam

ông Trần Việt Hùng PCT LHH Việt Nam

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) sau hơn 30 năm phấn đấu, phát triển, đã trở thành tổ chức chính trị-xã hội của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng.
Về mặt tổ chức, Liên hiệp Hội Việt Nam hiện nay là một hệ thống bao gồm 140 Hội thành viên, trong đó có 77 Hội khoa học và kỹ thuật hoạt động trong phạm vi toàn quốc (gọi chung là Hội ngành toàn quốc) và 63 Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Liên hiệp hội địa phương) Ngoài ra còn có 390 tổ chức KH&CN (các Trung tâm, Viện, Liên hiệp) trực thuộc Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương và gần 400 tổ chức khoa học, công nghệ trực thuộc các Hội thành viên (chiếm gần 50% số tổ chức khoa học, công nghệ ngoài công lập cả nước). Trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam còn có 101 cơ quan báo chí với 400 ấn phẩm là báo, tạp chí khoa học chuyên ngành, bản tin, trang tin điện tử.. Mạng lưới hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam phát triển sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu, các cơ quan quản lý nhà nước và nhiều tổ chức khác. Hiện nay, các tổ chức của Liên hiệp Hội Việt Nam đã thu hút được trên 2 triệu hội viên, trong đó có gần một triệu trí thức KH&CN (chiếm 1/3 trí thức KH&CN hiện có của cả nước).

Những đổi mới về nội dung hoạt động của Liên hiệp Hội Việt Nam giai đoạn 2010-2015

1.Những đổi mới trong chức năng, nhiệm vụ của LHHVN

Chỉ thị 42-CT/TW ngày 16  tháng 4  năm 2010 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước xác định rõ “Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có chức năng tập hợp, đoàn kết và phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam trong và ngoài nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội thành viên và hội viên của các hội thành viên, góp phần đưa khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Trên tinh thần Chỉ thị số 42-CT/TW, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Liên hiệp Hội Việt Nam đã thống nhất thông qua Điều lệ, trong đó mục đích hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Liên hiệp Hội Việt Nam được bổ sung, sửa đổi trên cơ sở tổng kết tình hình, kết quả và kinh nghiệm hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam qua các nhiệm kỳ trước, và quán triệt sâu sắc những nội dung chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ VI xác định mục đích hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam không chỉ “phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức KH&CN..” (Điều lệ Đại hội V) mà còn “tập hợp, đoàn kết, phát huy sức mạnh sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế tri thức vì sự phát triển bền vững đất nước, góp phần bảo vệ Tổ quốc và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Điều lệ Đại hội VI)
            Về chức năng, ở Đại hội V, chúng ta xác định Liên hiệp Hội Việt Nam là “đầu mối giữa các hội thành viên với các cơ quan của Đảng, Nhà nước…”, nhưng đại hội VI đã xác định vị trí của Liên hiệp Hội ở một tầm cao hơn “Liên hiệp Hội Việt Nam làm cầu nối giữa các hội thành viên với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung đối với đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam”.
            Về phát triển tổ chức, bên cạnh nhiệm vụ “củng cố, phát triển tổ chức” mà đại hội V đề ra, Đại hội VI Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh thêm nhiệm vụ “kiện toàn tổ chức bộ máy của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật ở Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Hoạt động Phổ biến kiến thức được coi là nhiệm vụ trọng tâm của Liên hiệp Hội Việt Nam, do vậy bên cạnh việc “phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ trong nhân dân”, đại hội VI xác định Liên hiệp Hội và các Hội thành viên cần thực hiện nhiệm vụ “giáo dục, đào tạo và dạy nghề, góp phần xây dựng xã hội học tập; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.”.
Hoạt động tư vấn, phản biện, giám định xã hội được xem như là một “đặc sản” của Liên hiệp Hội Việt Nam. Nhiều năm trước đây, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội đã mang lại nhiều tiếng vang cho Liên hiệp Hội Việt Nam. Không dừng lại ở việc “tổ chức các hoạt động tư vấn, phản biện..”, nhiệm kỳ 2010-2015, Liên hiệp Hội Việt Nam tiến tới “Chủ động tư vấn, phản biện và giám định xã hội… ” và “Tham gia cấp chứng chỉ hành nghề, thực hiện giám sát hoạt động nghề nghiệp và các dịch vụ công theo quy định của pháp luật”. (Điều lệ Đại hội VI). Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị tiếp tục nhấn mạnh và đề cao vai trò của Liên hiệp Hội và các Hội thành viên thông qua việc giao nhiệm vụ “đề xuất, tham mưu cho Đảng và Nhà nước; chủ động tư vấn, phản biện và giám định xã hội; đi đầu trong truyền bá kiến thức KH&CN, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN”
Điều đó cho thấy, Đảng và Nhà nước rất tin tưởng Liên hiệp Hội Việt Nam và ủng hộ đội ngũ trí thức KH&CN. Như vậy, Liên hiệp hội Việt Nam, đội ngũ trí thức cũng cần xác định được trọng trách Đảng và Nhà nước giao phó để trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực và phát huy thế mạnh tập thể để hoàn thành nhiệm vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và Nhà nước.

2.Những đổi mới trong nội dung hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội

Trong những năm gần đây, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội Việt Nam và các Hội thành viên ngày càng được coi trọng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá cao, đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Điển hình là: Liên hiệp Hội Việt Nam cùng với các hội thành viên đã tổ chức đóng góp ý kiến đối với các báo cáo quan trọng, các dự thảo luật. Lần đầu tiên, trong Luật KH&CN (sửa đổi năm 2013), đã khẳng định vai trò của Liên hiệp Hội Việt Nam trong công tác phổ biến kiến thức (Điều 48 Luật Khoa học và Công nghệ). Có thể thấy rằng sự đóng góp và tư vấn của Liên hiệp Hội Việt Nam vào dự thảo Luật đã được ghi nhận.
Liên hiệp Hội và các Hội thành viên tổ chức tư vấn, phản biện thành công nhiều chương trình, dự án lớn: tư vấn phản biện Dự án “đường sắt cao tốc Bắc – Nam”, tư vấn, phản biện Đề án “Quy hoạch thủ đô đến năm 2030 tầm nhìn 2050”,  góp ý đề án “đánh giá thực trạng lao động việc làm ở các khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp và các chính sách hỗ trợ nhóm nông dân mất đất”, phản biện Dự án bauxite Tây nguyên, phối hợp với Hội Địa vật lý, Hội Thủy lợi và Mạng lưới sông ngòi Việt Nam đánh giá sự cố thuỷ điện Sông Tranh 2; tư vấn, phản biện Dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành; Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đánh  giá tình hình thực hiện chương trình  mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu.Đặc biệt, Liên hiệp Hội Việt Nam đã tổ chức một phong trào rộng khắp trong hệ thống lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi (năm 2013).
Các Liên hiệp Hội địa phương cũng tham gia rất tích cực vào việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Hiện nay, đã có 36 Liên hiệp Hội địa phương đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành văn bản về nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Nhiều Liên hiệp Hội đã tham gia góp ý và phản biện với lãnh đạo tỉnh về các Chương trình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, Quy hoạch tổng thể phát triển KH-CN của tỉnh, phản biện các đề án về quy hoạch giao thông, nông nghiệp nông thôn…Điển hình là Liên hiệp Hội Đà Nẵng tham gia phản biện đề án quy hoạch giáo dục và đào tạo thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010 - 2020; Liên hiệp Hội Quảng Ngãi đã thực hiện phản biện quy hoạch điều chỉnh mở rộng xây dựng khu kinh tế Dung Quất đến năm 2025, Liên hiệp Hội Hà Nội thực hiện góp ý Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi, Dự thảo Luật Thủ đô…
Những đổi mới trong nội dung hoạt động Tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội Việt Nam trong giai đoạn 2010- 2015 thể hiện ở các nét sau:
(1)- Hướng đến các hội thành viên: Nếu trước đây, phần lớn các hoạt động Tư vấn, phản biện và giám định xã hội tập trung thực hiện tại cơ quan Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam thì trong nhiệm kỳ 2010- 2015 nhiều nhiệm vụ tư vấn, phản biện được giao cho các Hội thành viên thực hiện hoặc chủ trì phối hợp với các Hội thành viên khác, các đơn vị khoa học, công nghệ trực thuộc thực hiện. Cơ quan Liên hiệp Hội Việt Nam có trách nhiệm giới thiệu chuyên gia, hỗ trợ kinh phí từ nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội Việt Nam.Vì vậy, nội dung tư vấn phản biện phong phú hơn và có chiều sâu hơn.
(2)- Yêu cầu và chất lượng của hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội được nâng cao. Đặc biệt, trên cơ sở thực hiện chỉ thị 42-CT/TW ngày 16/4/2010 của Bộ Chính trị khóa X, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 14/2014/QĐ-TTg về quy chế hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam thay thế cho Quyết định số 22/2000/QĐ-TTg đã cho phép Liên hiệp Hội Việt Nam chủ động hơn trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, đồng thời cũng đòi hổi cao hơn về chất lượng và mức độ phản biện.Trên cơ sở Quyết định số 14/2014/QĐ-TTg nhiều địa phương cũng đã ban hành Quy chế hoạt động tư vấn, phản biện... cho liên hiệp Hội của địa phương mình.
(3)- Đẩy mạnh liên kết phối hợp trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Trong 5 năm qua, Liên hiệp Hội Việt Nam đã đẩy mạnh việc ký kết các chương trình phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Ban kinh tế Trung ương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhiều Bộ, Ban, ngành khác. Hoạt động liên kết này một mặt nâng tầm Liên hiệp Hội lên, mặt khác, cải thiện mối quan hệ với các Bộ , Ban, Ngành,rút ngắn khoảng cách vận động chính sách. Dựa trên mô hình này, nhiều Liên hiệp Hội địa phương cũng đã tiến hành ký kết phối hợp với các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
 
3.Những đổi mới trong nội dung hoạt động Thông tin và phổ biến kiến thức

Mục tiêu của Phổ biến kiến thức KH&CN trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam nhằm giới thiệu các kiến thức, thành tựu KH&CN mới của Việt Nam và thế giới, đưa các tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào áp dụng trong sản xuất và đời sống, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ trong mọi lĩnh vực và thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Chính vì vậy, phổ biến kiến thức KH&CN hướng đến áp dụng trên diện rộng, tác động mọi tầng lớp người dân trong xã hội, trong đó các chương trình ưu tiên hướng đến người  dân ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Các lĩnh vực mà Liên hiệp Hội Việt Nam và các Hội thành viên hướng tới là đúng chuyên môn của các hội thành viên, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của đông đảo cộng đồng, đó là: nông nghiệp và phát triển nông thôn; công nghiệp, giao thông, xây dựng; y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân; giáo dục, bảo vệ môi trường;văn hóa, xã hội, tuyên truyền và phổ biến chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong giai đoạn 2010-2015, hoạt động phổ biến kiến thức của Liên hiệp Hội Việt Nam tập trung vào xây dựng cơ sở dữ liệu, sản xuất bản tin phổ biến kiến thức, biên soạn tin, bài xuất bản trên trang tin điện tử tổng hợp vusta.vn.  Đặc biệt trong 2 năm gần đây, Liên hiệp Hội Việt Nam đã đóng vai trò là cơ quan đầu mối, quản lý, trực tiếp làm thủ tục cấp kinh phí cho các Hội thành viên thực hiện các nhiệm vụ phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ. Với sự nỗ lực đẩy mạnh hoạt động phổ biến kiến thức, những năm gần đây kinh phí của hoạt động phổ biến kiến thức không ngừng tăng lên (từ 1,9 tỷ năm 2010 lên 3,2 tỷ năm 2014). 
Nhiều hội thành viên và tổ chức KH&CN trực thuộc đã biên soạn và xuất bản một số lượng rất lớn các loại sách chuyên ngành, sách tham khảo, tài liệu, tờ rơi nhằm phổ biến kiến thức cho người dân và hướng dẫn người dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất và đời sống, trợ giúp pháp lý, bảo vệ môi trường và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nhà xuất bản Tri thức, Báo Khoa học và Đời sống, Báo Đất Việt, Báo Kinh tế Nông thôn, các tạp chí, tập san thuộc hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã cung cấp nhiều kiến thức có ích cho công chúng phục vụ sản xuất và đời sống, đồng thời cung cấp nhiểu tư liệu quý phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu của bạn đọc.
 
4.Những đổi mới trong nội dung hoạt động tôn vinh đội ngũ trí thức KH&CN

Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Lãnh đạo Liên hiệp Hội Việt Nam đã tổ chức nhiều buổi đến thăm và tặng quà trí thức tiêu biểu trong và ngoài hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam. Việc thăm hỏi không chỉ động viên các nhà khoa học, những người đã cống hiến không mệt mỏi cho nền khoa học nước nhà mà còn mang ý nghĩa Liên hiệp Hội luôn trân trọng trí thức, trọng dụng nhân tài. Bên cạnh đó, Lãnh đạo Liên hiệp Hội cũng đã tích vực vận động và tham gia tích cực vào việc xây dựng chính sách hỗ trợ, động viên đối với nhân sỹ, trí thức có hoàn cảnh khó khăn theo tinh thần Kết luận 59/KL của Bộ Chính trị.
Việc động viên trí thức còn được thể hiện qua công tác thi đua, khen thưởng được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc để ghi nhận sự đóng góp và thành tích của các tập thể, cá nhân trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam. Nhiều tập thể và cá nhân đã được nhận danh hiệu cao quý của Đảng và Nhà nước: Huân chương lao động, Danh hiệu Anh hùng lao động, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Các Hội thành viên, các tập thể và cá nhân có thành tích trong công tác Hội được nhiều tặng Bằng khen của Liên hiệp Hội Việt Nam, Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Khoa học và Kỹ thuật”…
Dưới sự bảo trợ của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Quỹ sáng tạo KH&KT VIFOTEC đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy phong trào quần chúng tham gia vào hoạt động sáng tạo khoa học công nghệ, tôn vinh, khuyến khích các nhà khoa học, các nhà sáng tạo, kể cả các em thanh thiếu niên trong cả nước. Giải thưởng đã tập hợp được một lực lượng đông đảo các nhà khoa học, các nhà công nghệ trong cả nước từ các Viện nghiên cứu, các Trường đại học, các doanh nghiệp tích cực tham gia. Tất cả các Liên hiệp Hội tỉnh/ thành phố đều hưởng ứng và tích cực động viên quần chúng trong địa phương mình tham gia tích cực cuộc thi và đã đạt được nhiều thành tích xứng đáng.
Đặc biệt, để ghi nhận và tôn vinh những đóng góp của trí thức KH&CN, ngày 18 tháng 5 hằng năm chính thức được Nhà nước công nhận là ngày trí thức Việt Nam. Để ngày hội này được ghi nhận có phần đóng góp của Liên hiệp Hội Việt Nam. Đánh dấu sự kiện lịch sử này, Liên hiệp Hội Việt Nam đã phối hợp với các Hội thành viên và Bộ KH&CN tổ chức một chuỗi các hoạt động hội thảo, hội nghị, triển lãm, thăm hỏi và vinh danh trí thức KH&CN, những người đã có đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
 
 Những đổi mới trong phương thức hoạt động của Liên hiệp Hội Việt Nam giai đoạn 2010-2015

1.Những đổi mới về mặt tổ chức

Về củng cố hệ thống cơ quan Liên hiệp Hội Việt Nam, trước đại hội VI, Liên hiệp Hội Việt Nam có 126 Hội thành viên (70 Hội ngành toàn quốc, 56 Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và 283 tổ chức KH&CN trực thuộc. Với chức năng tập hợp và đoàn kết, phát huy năng lực của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong cả nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ như: Nghiên cứu khoa học; đào tạo và phổ biến kiến thức; tư vấn phản biện và giám định xã hội; phát triển cộng đồng, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và hợp tác Quốc tế về khoa học và công nghệ. Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, ngoài số biên chế nói trên, Liên hiệp Hội Việt Nam phải sử dụng thêm 24 lao động hợp đồng và được phân bổ vào 6 phòng ban trong cơ quan.
Trong nhiệm kỳ VI (2010- 2015), hệ thống tổ chức của Liên hiệp hội Việt Nam không ngừng phát triển cả về quy mô và chức năng nhiệm vụ. Đến nay, Liên hiệp Hội Việt Nam đã có 140 Hội thành viên bao gồm: 77 Hội ngành toàn quốc và 63 Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố. Đấy là chưa kể đến Báo Khoa học và Đời sống, Báo Đất Việt, Nhà xuất bản tri thức và 390 tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc. Để đáp những nhu cầu nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao, năm 2010, Liên hiệp Hội Việt Nam đã thực hiện việc kiện toàn tổ chức, bổ sung các Ban chức năng cho phù hợp với nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tư vấn phản biện và thông tin, phổ biến kiến thức là nhiệm vụ trọng tâm của Liên hiệp Hội Việt Nam trong giai đoạn tới, Lãnh đạo Liên hiệp Hội Việt Nam đã quan tâm đặc biệt đến công tác này. Trong đề án kiện toàn bộ máy tổ chức, lãnh đạo Liên hiệp Hội Việt Nam đã đề xuất:
 (1) thành lập Ban Tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Ban có chức năng tham mưu, giúp việc lãnh đạo Liên hiệp hội Việt Nam quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tư vấn, phản biện, giám định xã hội và vận động chính sách của Liên hiệp hội Việt Nam.
 (2) Kiện toàn và sáp nhập Ban Thông tin và Ban Đào tạo và Phổ biến kiến thức thành Ban Thông tin và Phổ biến kiến thức. Ban Thông tin và Phổ biến kiến thức có chức năng tham mưu, giúp việc lãnh đạo Liên hiệp hội Việt Nam về công tác thông tin và phổ biến kiến thức của Liên hiệp hội Việt Nam.
 (3)Thành lập Ban Kế hoạch -Tài chính, với chức năng tham mưu cho lãnh đạo kế hoạch tổng thể hằng năm và giúp Thường trực Đoàn Chủ tịch quản lý và điều hành hoạt động tài chính của Liên hiệp Hội Việt Nam.
Năm 2013, sau khi đề án 327 được Bộ Nội vụ phê duyệt, Liên Hội Việt Nam xây dựng đề án biên chế và được Bộ Nội vụ giao thêm 05 chỉ tiêu biên chế, tăng lên thành 34 biên chế. Với số cán bộ hiện nay là 59 người, thì vẫn có tới 26 cán bộ làm việc theo chế độ hợp đồng. Mặc dù nhiệm vụ tăng lên, số phòng Ban trong cơ quan cũng tăng lên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhưng nhân lực thực tế trong mỗi phòng, ban hầu như không đổi, thậm chí có ban nhân sự còn bị giảm đi.
Cùng với việc kiện toàn bộ máy tổ chức, trong nhiệm kỳ vừa qua, Liên hiệp Hội Việt Nam đã quan tâm đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện một số quy chế, đã góp phần đưa các hoạt động của cơ quan vào nề nếp. Bên cạnh các quy chế được sửa đổi để phù hợp với nhiệm vụ như: Quy chế Đảng đoàn, Quy chế hoạt động của Hội đồng Trung ương, Đoàn chủ tịch, Ủy ban kiểm tra, Quy chế thi đua khen thưởng, quy chế thành lập quản lý các tổ chức KH&CN, quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, thì hàng loạt các quy chế mới lần đầu tiên được xây dựng và ban hành, đó là: Quy chế quản lý lao động hợp đồng, Quy chế quy hoạch cán bộ, quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế hợp tác quốc tế, quy chế văn thư lưu trữ…Trên cơ sở các quy chế được ban hành, hoạt động của các Phòng ban được tuân thủ và ngày càng đi vào bài bản.
Đồng thời với việc kiện toàn bộ máy tổ chức, việc xét tuyển cán bộ vào biên chế, công tác quy hoạch, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ được lãnh đạo Liên hiệp Hội Việt Nam thống nhất chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Bộ máy quản lý của Liên hiệp Hội Việt Nam đang trong giai đoạn hoàn thiện. Đến nay, Văn phòng và các Ban đều đã có cán bộ lãnh đạo. Một số Ban thiếu cán bộ lãnh đạo cấp trưởng sẽ được tiếp tục bổ sung trong thời gian tới.
Về hệ thống các tổ chức quần chúng. Công đoàn là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng cho người lao động. Trước đây, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, nên Công đoàn Cơ quan Liên hiệp Hội Việt Nam có nhiệm kỳ kéo dài tới 10 năm mà không tiến hành được Đại hội. Kể từ năm 2011, thực hiện sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Liên hiệp Hội Việt Nam, Đại hội Công đoàn Cơ quan Liên hiệp Hội Việt Nam được tổ chức đúng nhiệm kỳ 2 năm/lần để cán bộ, nhân viên lựa chọn những người tín nhiệm đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Công đoàn Liên hiệp Hội Việt Nam đã được nâng cấp thành công đoàn cấp trên cơ sở với 15 công đoàn trực thuộc.
Đoàn Thanh niên Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp tục phát triển, thu hút nhiều thanh niên trí thức tham gia với 11 chi đoàn cơ sở. Là hạt nhân tích cực của Đảng, trong những năm qua, nhiều đoàn viên thanh niên ưu tú được giới thiệu và được kết nạp Đảng.  
Đối với các Hội thành viên, Đề án “Kiện toàn tổ chức bộ máy của Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật ở Trung ương và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” đã chính thức xác định bộ phận tham mưu, giúp việc Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Văn phòng và 2 ban: Ban Thông tin, phổ biến kiến thức và Hội viên, Ban Khoa học, công nghệ và Tư vấn phản biện.
Thực hiện công văn 327/BNV-TCPCP ngày 19/01/2012 của Bộ Nội vụ về việc kiện toàn bộ máy tổ chức của Liên hiệp Hội, nhiều Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã xây dựng đề án kiện toàn tổ chức và được lãnh đạo tỉnh/thành phố phê duyệt và bổ sung biên chế, cũng như kinh phí hoạt động. Tại thời điểm năm 2010, bộ máy của Liên hiệp Hội địa phương hoạt động chủ yếu dựa vào Văn phòng, chỉ có 12 Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố có 03 phòng/ban trở lên, với 292 cán bộ (trong đó 193 biên chế và 99 lao động hợp đồng). Sau khi đề án kiện toàn tổ chức được triển khai, đến năm 2014 đã có tới 37 Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố có từ 03 phòng/ban trở lên với tổng số cán bộ lên tới 498 người (370 biên chế và 128 lao động hợp đồng). Mặc dù số lượng cán bộ tăng lên không phải là nhiều (bình quân mỗi liên hiệp hội tăng khoảng 2 cán bộ biên chế và 1 cán bộ hợp đồng), nhưng điều đó cho thấy đề án kiện toàn tổ chức của Liên hiệp Hội Việt Nam đã thực sự phát huy hiệu quả và phản ánh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức.
Đối với các Hội ngành toàn quốc, là các tổ chức tự chủ hoàn toàn về biên chế và kinh phí, hầu như các Hội không bị chi phối bởi đề án kiện toàn tổ chức. Với đặc thù là tổ chức hoạt động trong những lĩnh vực chuyên môn cụ thể, trong những năm qua, các Hội ngành toàn quốc vẫn duy trì, ổn định tổ chức và hoạt động. Thế mạnh của các Hội ngành là thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chương trình, dự án mang tính chất chuyên ngành và liên ngành, tham gia phổ biến kiến thức cho Hội viên và cộng đồng. Ngoài ra, Hội cũng thực hiện các đề tài, dự án theo lĩnh vực chuyên môn. Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam tích cực tham gia vào xã hội hóa dịch vụ kế toán, kiểm toán. Tổng Hội Y học được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giao nhiệm vụ giám sát việc hành nghề y tế tư..

2. Những đổi mới phương thức hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội

Có thể nói Quyết định 22/2000/QĐ-TTg ngày 30/01/2002 là một dấu mốc quan trọng của Liên hiệp Hội Việt Nam trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Quyết định 22/2000/QĐ-TTg đã nêu hai phương thức thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội là do các cơ quan Nhà nước đặt yêu cầu và do Liên hiệp Hội Việt Nam tự đề xuất. Trong quá trình thực hiện hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, Liên hiệp Hội Việt Nam và các Hội thành viên không chỉ dừng lại ở việc tổ chức thực hiện các hoạt động tư vấn, phản biện theo đặt hàng mà còn chủ động đề xuất và thực hiện các hoạt động tư vấn, phản biện có tính chất cấp bách. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội ngày càng được đẩy mạnh, không chỉ tại Liên hiệp Hội Việt Nam mà cả đối với các Hội ngành toàn quốc, các Liên hiệp Hội tỉnh, thành phố.
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội Việt Nam và các Hội thành viên được thực hiện thông qua các hình thức: tổ chức các hội nghị, hội thảo để các chuyên gia, các nhà khoa học trao đổi, thảo luận, đóng góp ý kiến góp ý vào các chương trình, đề án, các dự thảo luật; tiến hành nghiên cứu đánh giá các vấn đề phức tạp và có tính chất đa ngành, đa lĩnh vực; giới thiệu các chuyên gia theo từng chuyên ngành, lĩnh vực tham gia phản biện các chương trình, đề án…
 Với ý thức trách nhiệm, tinh thần khách quan khoa học, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp Hội Việt Nam đã phản ánh trung thực, khách quan ý kiến của đội ngũ trí thức đóng góp vào việc xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật và thực hiện có hiệu quả các dự án quan trọng về kinh tế - xã hội của đất nước. Các cơ quan Đảng và chính phủ đánh giá cao kết quả tư vấn, phản biện của Liên hiệp Hội Việt Nam. Do vậy, trong thời gian tới, Chính phủ vẫn tiếp tục giao cho Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội thông qua quyết định số 14/2014/QĐ-TTg ngày 14 tháng 2 năm 2014. Quyết định 14/2014/QĐ-TTg đã nêu rõ 3 phương thức  để thực hiện hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, đó là: (1) Các đề án cần lấy ý kiến Liên hiệp Hội Việt Nam và các hội thành viên trước khi ban hành (mang tính bắt buộc). (2) Chủ động đặt hàng của các cơ quan nhà nước và (3) Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên chủ động đề xuất thực hiện.
Trong những năm qua, một số hội thành viên của Liên hiệp Hội Việt Nam đã được chính thức giao nhiệm vụ tổ chức, triển khai các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Điển hình là Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC và Quyết định số 32/2007/QĐ-BTC ngày 15/5/2007 của Bộ Tài chính về kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam. Trên cơ sở Quyết định này, Hội đã chủ động trong việc phối hợp với Tổng cục Thuế, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán tư vấn về nghiệp vụ chuyên môn, tham gia vào kiểm tra tài chính, chất lượng ý kiến kiểm toán và chấm điểm hồ sơ kiểm toán từ đó kiến nghị Bộ Tài chính xem xét, xử lý các sai phạm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán….
Phát huy vai trò giám sát, từ năm 2014, chương trình phối hợp giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ sở y tế tư nhân đã được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính thức giao cho Tổng Hội Y học Việt Nam. Đối tượng giám sát là cơ sở y tế tư nhân bao gồm: Các cơ sở khám chữa bệnh, nhà thuốc tư nhân, bệnh viện, phòng khám đa khoa, phòng khám chuyên khoa, bác sĩ gia đình, phòng chẩn trị y học cổ truyền. Việc giám sát được tập trung 4 nhóm vấn đề chính: Giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về các điều kiện hành nghề của các cơ sở y tế tư nhân, đánh giá dịch vụ y tế, giá thuốc, chất lượng dịch vụ, chất lượng thuốc của các cơ sở; Rà soát, đề xuất hoàn thiện và nâng cao chất lượng, tính khả thi của các chính sách, pháp luật về các cơ sở y tế tư nhân; Lựa chọn địa bàn, đối tượng và xây dựng mô hình điểm về phối hợp giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ sở y tế tư nhân.

3. Những đổi mới phương thức hoạt động thông tin và phổ biến kiến thức

Chỉ thị số 42-CT/TƯ ngày 16-04-2010 xác định Liên hiệp Hội và các Hội thành viên “Đi đầu trong truyền bá kiến thức khoa học và công nghệ; tổ chức phong trào nhân dân sáng tạo, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống; nâng cao chất lượng các giải thưởng, hội thi sáng tạo khoa học và công nghệ, phát hiện, tôn vinh các cá nhân tiêu biểu trong hoạt động sáng tạo khoa học và công nghệ.”.
          Với tiềm năng, thế mạnh của một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn, tập hợp đông đảo đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ liên ngành và đa ngành, hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ của Liên hiệp Hội Việt Nam không phải là hoạt động đơn lẻ mà có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Hội ngành toàn quốc, các Liên hiệp Hội địa phương, các tổ chức KH&CN với nhau và với các đối tác nhằm xây dựng và phát huy đạo đức nghề nghiệp, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ trong nhân dân, giáo dục, đào tạo và dạy nghề, góp phần xây dựng xã hội học tập; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Liên hiệp Hội Việt Nam luôn coi công tác phổ biến kiến thức của là nhiệm vụ quan trọng hang đầu. Đề án Xây dựng giải pháp tăng cường công tác phổ biến kiến thức KH&CN của Liên hiệp Hội Việt Nam (2014) và  Đề án Khảo sát xây dựng quy chế quản lý hệ thống báo chí, truyền thông, xuất bản tại Liên hiệp hội Việt Nam (2013) do Ban Thông tin và Phổ biến kiến chủ trì thực hiện cũng nhằm nâng cao chất lượng của công tác phổ biến kiến thức trong toàn hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam.
Giai đoạn 2010-2015, chương trình Phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ (KH&CN) của Liên hiệp Hội Việt Nam và các tổ chức thành viên chủ yếu tập trung vào những hình thức chính: biên soạn, xuất bản và phát hành các ấn phẩm truyền thông về khoa học và công nghệ của hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam như: sách giáo khoa, sách tham khảo, sách hướng dẫn, các loại báo, tạp chí, bản tin, tài liệu, tờ rơi, các chương trình phát thanh và truyền hình; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức KH&CN cho hội viên và người dân; tổ chức hội thảo, hội nghị chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho người dân; tham quan, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt; triển khai các dự án nâng cao năng lực cho cộng đồng, cải thiện sinh kế cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tổ chức các cuộc thi sáng tạo KH&CN từ cấp tỉnh đến cấp quốc gia nhằm phát hiện, khuyến khích, tôn vinh và tuyên truyền, phổ biến các giải pháp sáng tạo KH&CN, các gương điển hình hoạt động KH&CN trong quần chúng nhân dân; Câu lạc bộ sinh hoạt chuyên đề; triển lãm trưng bày và giới thiệu các sản phẩm KH&CN...

5.Những đổi mới phương thức Hoạt động trong các lĩnh vực khác

       Ngoài các lĩnh vực hoạt động chính trên, thông qua thực tế, trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam cũng đang hình thành các phương thức hoạt động mới:
-Hình thành các mạng lưới tự nguyện để giải quyết các vấn đề lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như mạng lưới sông ngòi, mạng lưới quản lý ô nhiễm nguồn nước...Các thành viên tham gia mạng lưới tự nguyện, bình đẳng,không vì mục đích lợi nhuận, hoạt động theo cơ chế đồng thuận.
-Hình thành các doanh nghiệp xã hội. Phương thức hoạt động này còn non trẻ nhưng đã được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp Quốc hội ban hành 2014.
-Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 3 đơn vị được chọn xây dựng thí điểm mô hình Diễn đàn trí thức.
Những phương thức hoạt động này mới hình thành hoặc đang trong giai đoạn thử nghiệm , cần có thêm thời gian để đúc kết.

Một số hạn chế, nhược điểm còn tồn tại

Mặc dù trong những năm qua, số lượng tổ chức của Liên hiệp Hội Việt Nam phát triển khá mạnh, nhưng sự phát triển thực sự vẫn mang tính chất bề nổi, tính chuyên nghiệp chưa cao nên chưa phát huy được những tiềm năng và thế mạnh của đội ngũ trí thức.
 Đề án kiện toàn tổ chức đã phát huy tác dụng. Liên hiệp Hội Việt Nam và các Hội thành viên đã bắt tay vào kiện toàn bộ máy, tổ chức. Biên chế và kinh phí của từng tổ chức đã tăng, tuy nhiên, vẫn chưa đủ để đáp ứng nhiệm vụ được giao. Cán bộ làm việc trong một số phòng ban còn thiếu, dẫn đến  chưa đáp ứng được nhiệm vụ được phân công, hoặc quá tải về công việc.
Việc xã hội hóa các dịch vụ công và chuyển giao một số nhiệm vụ cho các Hội đã được tiến hành, nhưng chưa mạnh. Chưa có chế tài để đẩy nhanh dịch vụ công cho các tổ chức thành viên. Bên cạnh đó, nhiều Hội thành viên vẫn thiếu chủ động hoặc chưa đủ năng lực để sẵn sàng tiếp nhận dịch vụ công khi nhà nước chính thức chuyển giao cho tổ chức mình.
Mặc dù Liên hiệp hội Việt Nam và các Hội thành viên, các tổ chức KH&CN tham gia rất tích cực và có hiệu quả trong các hoạt động xã hội hóa, tuy nhiên, để có thể hoạt động chuyên nghiệp hơn, Liên hiệp Hội Việt Nam phải tiếp tục nâng cao năng lực để có thể đảm nhiệm được nhiều dịch vụ, đồng thời phải vận động chính sách để Nhà nước tin tưởng giao cho Liên hiệp Hội Việt Nam và các Hội thành viên nhiều nhiệm vụ hơn nữa.
Vai trò, vị thế của Liên hiệp Hội Việt Nam chưa được khẳng định rõ ràng. Chỉ thị 42/CT-TW năm 2010 của Bộ Chính trị quy định Liên hiệp hội Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội và được Nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động. Tuy nhiên, các văn bản của Nhà nước lại không đề cập đến điều này. Sự khập khiễng trong quan điểm chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện, phần nào dẫn đến hạn chế vai trò cũng như hiệu quả hoạt động của Liên hiệp Hội Việt Nam và các hội thành viên.
Luật KH&CN đã có 1 điều dành cho công tác phổ biến kiến thức của Liên hiệp Hội Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn chưa có cơ chế phối hợp và cơ chế tài chính để nhiệm vụ phổ biến kiến thức được thực hiện tốt hơn.
Cơ chế tài chính của hoạt động Tư vấn phản biện và giám định xã hội theo Quyết định số 14/2014/QĐ-TTg cũng chưa được Bộ tài chính ban hành nên cũng gây khó khăn cho các Liên hiệp Hội địa phương khi triển khai thực hiện Quyết định này.

Một số đề xuất, kiến nghị

Việc ra đời các tổ chức Hội và các tổ chức xã hội là tất yếu khách quan. Để tạo điều kiện cho các tổ chức này phát triển và có nhiều đóng góp cho xã hội, thì cần có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội phát triển. Nhà nước cần sớm ban hành Luật về các tổ chức xã hội, các quy định hướng dẫn thi hành luật, chính sách thuế đối với các tổ chức này.
Liên hiệp Hội và các Hội thành viên cần tiếp tục được nâng cao năng lực để ngày càng hoạt động chuyên nghiệp và hướng tới việc tiếp nhận các dịch vụ công từ khu vực nhà nước.
Trong giai đoạn tới, Liên hiệp Hội Việt Nam và các Hội thành viên cần đánh giá tổng thể về thực trạng tổ chức và hoạt động của của các Hội thành viên đề xây dựng định hướng chiến lược trong tương lai, nhất là khi nhà nước không giảm dần sự hỗ trợ biên chế và kinh phí hoạt động thường xuyên
Liên hiệp Hội Việt Nam chủ động, tích cực trong việc tham mưu, phối hợp với Bộ KH&CN, Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng xây dựng cơ chế phối hợp và cơ chế tài chính để hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ ngày càng được đẩy mạnh./.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • Đề án 327/BNV-TCPCP ngày 19/01/2012 “Kiện toàn tổ chức bộ máy của Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật ở Trung ương và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
  • Tổng kết 30 năm Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tập hợp, đoàn kết trí thức khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (SỐ 324/BC-LHHVN ngày 29 tháng 4 năm 2014)
  • Báo cáo tình hình thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của Bộ Chính trị trong 5 năm qua của LHHVN
  • Báo cáo tổng kết hoạt động của các Hội ngành toàn quốc giai đoạn 2010-2014
  • Báo cáo Tổng kết hoạt động của các Tổ chức KH&CN
  • Báo cáo Tổng kết hoạt động của các Liên hiệp Hội tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 2010-2014
  • Các báo cáo tại Văn kiện Đại hội VI của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
  • Chiến lược phát triển Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam giai đoạn 2010-2020
 

Tác giả: TS. Trần Việt Hùng

Nguồn tin: vusta.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

 

GIỚI THIỆU CHUNG

Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển (TaDRI) là một tổ chức khoa học công nghệ phi chính phủ, phi lợi nhuận được thành lập theo quyết định số 1364/QĐ - LHH của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 11/10/2006 và giấy phép hoạt động khoa học công nghệ số A-571 do Bộ Khoa học...

Đọc nhiều nhất