Trời rét như cắt. Không kể tiểu hàn, không kể cả đến đại hàn, buổi sớm mùa đông nào, cụ Ấm cũng dậy từ lúc còn tối đất. Từ trên bàn thờ đức Thánh Quan, cụ nhấc cây đèn đế xuống. Được khêu hai tim bấc nữa , cây đèn dầu sở phô thêm màu xanh lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.
Nhắc tới hát xẩm, người ta thường nghĩ ngay tới những người lam lũ, lang thang nơi đầu đường, cuối chợ, ca lên những lời điệu ai oán để kiếm miếng ăn. Không ít người trong họ phải đối diện với những sự khinh khi, miệt thị. Họ ca hát, kéo nhị, mua vui chung cho mọi người nhưng ngoài lòng thương hại, thật hiếm người lại coi họ như là những nghệ sĩ thực thụ.
Trong văn học sử của ta, Lê Quý Đôn (1726-1784) đã sáng tác một bài thơ thất ngôn bát cú có liên quan đến loài rắn trong một trường hợp khá ly kỳ như sau:
Có ông họ Phạm, là Thiên sai Hình phiên triều Lê, tính liêm khiết, công minh, xét việc thận trọng, chu đáo. Hồi ông còn ở chức, người ta thường ví ông với Long Đồ Bao Chửng.
Hỡi cô mặc áo yếm hồng Đi trong đám hội có chồng hay chưa? * Hỡi cô yếm thắm răng đen Muốn lên mạn ngược ngồi thuyền cùng anh! * Con cò đỗ cọc cầu ao Phất phơ hai dải yếm đào gió bay. Em về giục mẹ cùng thầy Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong?