Đền Bia Tuệ Tĩnh
- Thứ tư - 29/07/2015 11:51
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Tam quan đền Bia. Ảnh ©2015 NCCong
Du khách từ Hà Nội qua thị trấn Như Quỳnh nếu đi thẳng theo tỉnh lộ TL388 sẽ rút ngắn thêm được 6km, trong khi cứ theo quốc lộ QL5 thì phải quặt vào đền bằng một trong vài lối rẽ trái ở quãng đường giữa Văn miếu Mao Điền và Khu công nghiệp Đại An, TP Hải Dương. Trên bản đồ, đền Bia khá dễ tìm vì tọa lạc ở ngay ven TL388, cách chợ Phú Lộc 600m và cách đền Tuệ Tĩnh 1,1km, gần bờ tây (hữu ngạn) sông Thái Bình.
Lược sử
Năm 1385, lúc đó Tuệ Tĩnh 55 tuổi và đã là một thầy thuốc có tiếng tăm vượt biên giới. Triều đình nhà Minh đề nghị vua nước Nam đưa danh y sang chữa bệnh trong cung. Tại Nam Kinh, ông vẫn dồn tâm sức cho nghề trị bệnh giúp đời, được vua Minh phong là Đại y Thiền sư sau khi cứu sống bà hoàng hậu. Nhưng cho đến phút cuối, ông không một lần được quay lại quê hương. Thời đó đường xá xa xôi cách trở, tin tức không thông nên cũng chẳng ai biết chính xác ông mất năm nào.
Hai thế kỷ trôi qua, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho (1638-1699) là người cùng làng với Tuệ Tĩnh, có dịp đi sứ Trung Quốc đã đến viếng mộ danh y tại Giang Nam. Khi đọc mặt sau tấm bia mộ thấy dòng chữ: "Về sau có ai bên nước sang, nhớ cho hài cốt tôi về với", Nguyễn Danh Nho vô cùng cảm động nên đã dập mẫu bia mang về kinh thuê thợ đá khắc lại và chở về làng. Không may cả vùng quê ông lại đang chịu lụt, thuyền xuôi đến địa phận đền hiện nay thì bị lật, tấm bia rơi xuống nước không lấy lên được.
Khi nước cạn dân làng mới đưa được bia lên, nhân thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu (dụng cụ thái thuốc nam) bèn dựng miếu thờ. Ban đầu miếu làm bằng gianh tre, nhưng do người đến lễ đông, đèn nhang nghi ngút thường gây cháy. Dân làng phải lập một ngôi đền ở gần đó gọi là đền Trung để thờ vọng, sau đó mới xây đền Bia kiên cố bằng gạch và gỗ lim, gọi là đền Thượng.
Từ ngày dựng bia, người khắp nơi kéo đến đền lấy thuốc, hái lá, xin nước giếng ở đó về uống với hy vọng mọi bệnh sẽ khỏi. Tương truyền vào năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) mỗi ngày có tới hàng nghìn người như thế, vua phải hạ chiếu cấm việc cúng lễ và xin thuốc, sai người đem tấm bia cất tại kho ở dinh quan Hải Dương. Sau có một người gốc làng Văn Thai làm chức thủ kho đã bí mật lấy lại bia đem về đền cũ. Để giấu việc này, dân làng đã đặt bia vào trong tường chùa Văn Thai rồi xây kín lại, nhờ đó mà tấm bia tồn tại được cho đến ngày nay.
Kiến trúc
Năm 2003 một dự án đại trùng tu đền Bia đã được phê duyệt. Diện tích được mở rộng lên gần 4 ha, gồm khu thờ tự và khu y xá. Khu thờ tự gồm 5 công trình: tam quan, thuỷ đình, các nhà tả vu, hữu vu, tiền tế và hậu cung, tổng số 23 gian, còn lại là sân vườn, tường bao và cổng. Khu y xá gồm 3 công trình: nhà bắt mạch kê đơn, nhà bốc thuốc và nhà chẩn trị, mỗi công trình 5 gian. Ngoài ra còn có nhà từ tâm dùng làm nơi đón tiếp khách. Công trình khánh thành vào năm 2006 với tổng kinh phí 14,8 tỷ đồng.
Đền Bia nhìn về tam quan ở hướng bắc qua một hồ nước khá rộng hình chữ nhật, xung quanh là cánh đồng giữa hai làng Văn Thai và Nghĩa Phú. Bên phải đền là một bãi đỗ xe trước cổng phụ có gác thường trực. Cạnh lối này có một thủy đình trên hồ. Bước lên thềm rồng trước bức bình phong đề chữ “Phúc” du khách đi vào một sân rộng lát gạch Bát Tràng nằm ở giữa hai dãy nhà tả, hữu vu.
Cuối sân là khu đền thờ bao gồm các tòa tiền tế, trung từ và hậu cung; kết nối với nhau theo kiểu “tiền Nhất, hậu Đinh”. Toà tiền tế từng được trùng tu năm 1993, mang đậm phong cách nghệ thuật kiến trúc của thời Nguyễn; bao gồm 5 gian với diện tích 120m2. Tòa trung từ và hậu cung nhỏ hơn nhưng chắc chắn và đồng bộ từ kiến trúc đến các đồ thờ tự. Tòa nhà xây kiểu lòng thuyền tứ trụ, vì con chồng đấu sen, bức cốn chạm long cuốn thuỷ và hoa lá. Tất cả được bố trí trong một khuôn viên rộng có những vườn thuốc Nam và cây cối bao quanh.
Di vật
Trong đền Bia hiện nay còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, trong đó có một bệ đá thời Nguyễn chạm khắc hình tứ linh tứ quý và một cỗ khám thờ bằng gỗ sơn son thiếp vàng để đặt tượng Tuệ Tĩnh. Chính điện treo bức đại tự ghi 4 chữ "Thánh cung vạn tuế", nghĩa là "Đức thánh muôn tuổi".
Dọc hai cột bên có đôi câu đối ca ngợi Thần y:
Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa
Thánh sư dược diệu trấn Nam bang
Đông Tỉnh tạm dịch là:
Thái học tiếng vang lừng đất Bắc
Thánh sư thuốc giỏi nhất trời Nam [1]
Như đã nói, trong khám thờ ở hậu cung có một bức tượng nhỏ bằng đồng, tạc danh y Tuệ Tĩnh ngồi trên ngai, đầu đội khay, râu dài, hai tay chắp trước ngực, mặc áo thêu hình rồng, gương mặt sống động. Theo tài liệu còn lưu tại chùa, tác phẩm này do dân làng Văn Thai tự đúc để thờ ngài ngay từ khi mới xây đền.
Ngoài ra ở phía sau cùng của gian hậu cung còn có một tấm bia đá trông như cây cột nhỏ, cao khoảng 80cm và rộng khoảng 20cm, đầu được mài nhọn. Do thời gian và con người, những chữ khắc trên bia đã mờ và bị đục nham nhở, rất khó đọc. Theo Ban quản lý đền Bia đó chính là dòng chữ ghi lại ước mong của thiền sư Tuệ Tĩnh trước khi mất ở nơi đất khách quê người: "Về sau có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với".
Lễ hội Đền Bia
Xưa kia lễ hội thường kéo dài. Tư liệu cho biết dịp Thánh ứng lần thứ nhất (năm 1830) phải hết 4 ngày mới rã đám.
Ngày mùng 1 tháng 4: mở đầu bằng lễ rước kiệu từ đền Trung ra đền Thượng. Một tốp thanh niên múa cờ, bát biểu dẫn đường, sau đó đến đội chiêng, trống, tiếp theo là kiệu rước bát hương, được hai người cầm lọng che hai bên và 12 chàng trai khiêng do các giáp lựa chọn, tuổi từ 18 đến 30, mặc áo màu đỏ. Các chức sắc làng, xã mặc áo lương, đội khăn xếp đi sau. Cỗ kiệu thứ hai được 4 người khiêng, trên long đình đặt hòm sắc, có các vị trong hội đồng tộc biểu của làng, giáp theo sau. Cuối cùng là đoàn các cụ, các bà mặc áo dài, vấn khăn đội lễ vật và đám đông đi theo. Lễ vật gồm lợn luộc cả con, mâm xôi, trầu, rượu và hoa quả, đèn hương... chủ yếu là sản vật quê hương. Khi đoàn rước đến đền Bia, kiệu được đặt trên sân chính và lễ tế thánh bắt đầu, đội tế nam gồm 15 người, chủ tế là tiên chỉ của làng.
Ngày mùng 2 tháng 4: đền Trung, đền Thượng mở cửa cho dân tự do lễ bái và xin thuốc. Tương truyền ai vào đền Bia bứt lá đặt lên lễ thánh sau đó mang về sắc uống đều khỏi bệnh, cho nên các nơi kéo đến rất đông, dân làng đem ra đền đủ các loại lá tre dây, ngải cứu, cúc tần, lá mít, lá bưởi... để bán. Năm 1830 có hàng vạn người đến lễ và xin thuốc thánh, dân địa phương phải làm nhà sàn xung quanh đền để phục vụ. Không khí nhộn nhịp suốt ngày đêm, trong làng chỉ có cụ già và trẻ nhỏ, còn tất cả đều ra đền phục vụ lễ hội.
Ngày mùng 3 tháng 4: dân địa phương và các nơi vẫn đến đặt lễ thánh và xin thuốc. Làng tổ chức một số trò chơi dân gian tranh giải thưởng như đánh cờ, bịt mắt bắt dê, đi cầu kiều. Buổi tối còn có biểu diễn hát chèo đến khuya.
Ngày mùng 4 tháng 4: dân làng rước kiệu bát hương và hòm sắc trở lại đền Trung và làm lễ tạ thánh, sau đó rã đám và đóng cửa đền.
Từ đó lễ hội hàng năm vẫn được duy trì và tổ chức đầy đủ lệ bộ nhưng người đến dự không đông bằng lần đầu. Hội đồng tộc biểu đặt lệ: nhà có đại tang không được dự rước kiệu, ai ăn thịt chó không được vào đền làm lễ, nếu làm sai sẽ bị làng phạt.
Hơn một thế kỷ sau, vào năm Bảo Đại thứ 11 (1936) tương truyền có Thánh ứng lần thứ hai, lễ hội cũng được tổ chức 4 ngày, từ mùng 1 tháng 4 đến ngày mùng 4 tháng 4 như dịp thứ nhất. Nhưng lần này người đến lễ và xin thuốc đông hơn rất nhiều, mỗi ngày có tới hàng vạn người từ trong Nam, ngoài Bắc đổ về, tất cả những thứ lá gì trong đền cũng đều được coi là thuốc quý chữa bách bệnh. Nhân dân địa phương càng cho là hiện tượng "hiển thánh".
Cho đến ngày nay lễ hội vẫn diễn ra bình thường nhưng không đông như năm 1936 nữa. Năm 1962 đền Trung giải hạ, từ đó lễ hội tập trung vào đền Bia là chính. Năm 1992 xã Cẩm Văn thành lập Chi hội Đông y, chuyên sản xuất, kê đơn bốc thuốc nam, bắc. Hội viên khá đông, địa điểm đặt tại đền Bia, xung quanh trồng nhiều dược thảo, hoạt động có hiệu quả tốt, phát huy truyền thống của Tuệ Tĩnh.
Di tích lân cận
Chùa Đống Cao
Chùa Giám
Đền Xưa
__________________
[1] Tuệ Tính từng đỗ Thái học sinh nhưng gặp thời mạt Trần, không ra làm quan. Dịch là Thái học bởi vì đến thời Hậu Lê mới chia bậc khoa bảng ra Tam khôi, Hoàng giáp và Tiến sĩ.